Vào tháng 10 năm 2014, Hoa Kỳ và Braxin đã giải quyết tranh chấp bông kéo dài tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) .4 Braxin đã chấm dứt vụ kiện, từ bỏ quyền đối với các biện pháp đối phó với thương mại của Hoa Kỳ hoặc các thủ tục tiếp theo trong tranh chấp.

Hiệp định thương mại song phương và Hiệp đinh thương mại đa phương

Hiệp định thương mại song phương trong tiếng Anh là Bilateral Trade Agreements.

Là hiệp định thương mại giữa hai quốc gia, trong đó nêu ra những điều kiện để tiến hành các hoạt động thương mại.

Hiệp định thương mại đa phương trong tiếng Anh là Multilateral Trade Agreements.

Là hiệp định do nhiều quốc gia kí kết về các lĩnh vực hoạt động thương mại mà các thành viên cùng có nghĩa vụ thực hiện.

Hiệp định thương mại song phương

Nếu cả hai bên kí kết đều là thành viên của WTO, thì hiệp định thương mại song phương thường hướng tới một chương trình tạo quan hệ thương mại và xúc tiến thương mại thuận lợi hơn so với những qui định thuộc WTO.

Nếu một bên không phải là thành viên của WTO, hiệp định thương mại song phương hướng tới những qui định của WTO, theo đó thỏa thuận các biện pháp cho dòng thương mại được lưu thông thuận lợi và giải quyết các vấn đề được nhanh chóng.

Quá trình thực hiện hiệp định thương mại song phương thường có kiểm điểm định kì sự phát triển của thương mại ở cấp bộ trưởng hoặc ở cấp chuyên viên.

Thông thường, hiệp đinh thương mại đa phương có nhiều thành viên đại diện cho các quốc gia tham gia buôn bán ở các mức nhỏ, trung bình và lớn.

Quy chế thành viên trong hiệp định này là rộng, nhưng muốn gia nhập thường phải thể hiện được chế độ thương mại của họ phù hợp với mục tiêu của hiệp định và các điều kiện thâm nhập thị trường của họ gần giống như điều kiện của các thành viên khác; nếu chưa phù hợp, cần thiết phải có sự điều chỉnh theo yêu cầu của từng hiệp định.

Mục tiêu: Hiệp định thương mại đa phương nhằm mở rộng và tự do hóa thương mại trong các điều kiện không phân biệt đối xử , công khai và minh bạch , được qui định trong các quyền và nghĩa vụ. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ, tất cả các bên sẽ có cơ hội nâng cao phúc lợi thông qua các quan hệ thương mại.

Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch - GATT là hiệp định thương mại đa phương đầu tiên có hiệu lực từ năm 1948.

Ngày 1 tháng 1 năm 1995, Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO ra đời thay thế cho GATT, theo đó các thành viên WTO kí hiệp định thương mại đa phương với 4 lĩnh vực điều chỉnh quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên, đó là:

- Hiệp định thương mại hàng hóa (GATT): Hiệp định về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa vật chất như nguyên liệu thô, bán thành phẩm và thành phẩm, trong đó các bên kí kết hiệp định thống nhất các nguyên tắc thực hiện trong quan hệ buôn bán.

- Hiệp định Thương mại dịch vụ (GATS): Hiệp định về cung cấp dịch vụ theo các điều kiện thương mại cho đối tác thông qua thương mại xuyên biên giới hay thông qua hiện diện thương mại.

- Hiệp định về Quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (TRIPs). Hiệp định này nhằm giải quyết căng thẳng gia tăng trong thương mại quốc tế nảy sinh từ những tiêu chuẩn khác nhau để bảo hộ và thực hiện quyền sở hữu trí tuệ.

- Hiệp định về Các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs). Hiệp định này đề cập đến những yêu cầu đối với nhà đầu tư nước ngoài ở những biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại như: hàm lượng nội địa, cân đối thương mại, cân đối ngoại hối, tiêu thụ trong nước, yêu cầu sản xuất, tỉ lệ nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, chuyển lợi nhuận, tỉ lệ góp vốn...

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính)

Hiệp định đầu tư song phương là gì?

– Khái niệm Hiệp định đầu tư song phương:

Hiệp định đầu tư song phương là hoạt động trao đổi hàng hóa giữa hai quốc gia nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư. Hai nước sẽ cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu và các rào cản thương mại khác để khuyến khích thương mại và đầu tư.

Tại Hoa Kỳ, Văn phòng các vấn đề thương mại song phương giảm thiểu thâm hụt thương mại thông qua đàm phán các hiệp định thương mại tự do với các nước mới, hỗ trợ và cải thiện các hiệp định thương mại hiện có, thúc đẩy phát triển kinh tế ở nước ngoài và các hành động khác.

+ Chính phủ áp đặt thuế quan để nâng cao doanh thu, bảo hộ các ngành sản xuất trong nước hoặc tạo đòn bẩy chính trị đối với quốc gia khác. Thuế quan thường dẫn đến các tác dụng phụ không mong muốn, chẳng hạn như giá tiêu dùng cao hơn. Thuế quan có một lịch sử lâu dài và gây tranh cãi và cuộc tranh luận về việc liệu chúng đại diện cho một chính sách tốt hay xấu vẫn diễn ra gay gắt cho đến ngày nay.

+ Trong thế giới hiện đại, chính sách thương mại tự do thường được thực hiện bằng một hiệp định chính thức và có sự đồng thuận của các quốc gia có liên quan. Tuy nhiên, chính sách thương mại tự do có thể đơn giản là không có bất kỳ hạn chế thương mại nào.

Chính phủ không cần phải thực hiện các hành động cụ thể để thúc đẩy thương mại tự do. Lập trường bó tay này được gọi là “thương mại tự do” hay tự do hóa thương mại.

Các chính phủ có chính sách hoặc hiệp định thương mại tự do không nhất thiết phải từ bỏ mọi kiểm soát đối với xuất nhập khẩu hoặc loại bỏ tất cả các chính sách bảo hộ. Trong thương mại quốc tế hiện đại, rất ít hiệp định thương mại tự do (FTA) dẫn đến thương mại tự do hoàn toàn.

Các cách hiểu chính về Hiệp định thương mại song phương: Hiệp định thương mại song phương là hiệp định giữa các quốc gia nhằm thúc đẩy giao thương và thương mại. Họ loại bỏ các rào cản thương mại như thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu để khuyến khích thương mại và đầu tư.

Ưu điểm chính của các hiệp định thương mại song phương là mở rộng thị trường cho hàng hóa của một quốc gia thông qua đàm phán phối hợp giữa hai quốc gia. Các hiệp định thương mại song phương cũng có thể dẫn đến việc đóng cửa các công ty nhỏ hơn không thể cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia lớn.

Nội dung chính của hiệp định:

Các nội dung chính của hiệp định thương mại song phương:

Mục tiêu của các hiệp định thương mại song phương là mở rộng khả năng tiếp cận giữa thị trường hai nước và tăng trưởng kinh tế của họ. Hoạt động kinh doanh được tiêu chuẩn hóa trong năm lĩnh vực chung ngăn cản một quốc gia ăn cắp các sản phẩm sáng tạo của nước khác, bán phá giá hàng hóa với chi phí thấp hoặc sử dụng các khoản trợ cấp không công bằng. Các hiệp định thương mại song phương tiêu chuẩn hóa các quy định, tiêu chuẩn lao động và bảo vệ môi trường.

Hoa Kỳ đã ký các hiệp định thương mại song phương với 20 quốc gia, một số trong số đó bao gồm Israel, Jordan, Australia, Chile, Singapore, Bahrain, Morocco, Oman, Peru, Panama và Colombia.1

Cộng hòa Dominica-Trung Mỹ FTR (CAFTA-DR) là một hiệp định thương mại tự do được ký kết giữa Hoa Kỳ và các nền kinh tế nhỏ hơn của Trung Mỹ, cũng như Cộng hòa Dominica.1 Các quốc gia Trung Mỹ là El Salvador, Guatemala, Costa Rica, Nicaragua và Honduras. NAFTA đã thay thế các hiệp định song phương với Canada và Mexico vào năm 1994. Hoa Kỳ đã đàm phán lại NAFTA theo Hiệp định Hoa Kỳ-Mexico-Canada, có hiệu lực vào năm 2020.

– Những thuận lợi và khó khăn của thương mại song phương: So với các hiệp định thương mại đa phương, các hiệp định thương mại song phương được đàm phán dễ dàng hơn, vì chỉ có hai quốc gia là thành viên của hiệp định. Các hiệp định thương mại song phương khởi xướng và gặt hái những lợi ích thương mại nhanh hơn các hiệp định đa phương.

Khi các cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại đa phương không thành công, nhiều quốc gia sẽ đàm phán các hiệp ước song phương. Tuy nhiên, các hiệp định mới thường dẫn đến các hiệp định cạnh tranh giữa các quốc gia khác, loại bỏ những lợi thế mà Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) mang lại giữa hai quốc gia ban đầu.

Các hiệp định thương mại song phương cũng mở rộng thị trường cho hàng hóa của một quốc gia. Hoa Kỳ theo đuổi mạnh mẽ các hiệp định thương mại tự do với một số quốc gia dưới thời chính quyền Bush trong suốt đầu những năm 2000.

Ngoài việc tạo ra một thị trường cho hàng hóa của Hoa Kỳ, việc mở rộng đã giúp truyền bá câu thần chú về tự do hóa thương mại và khuyến khích mở cửa biên giới cho thương mại. Tuy nhiên, các hiệp định thương mại song phương có thể làm lệch thị trường của một quốc gia khi các tập đoàn đa quốc gia lớn, có vốn và nguồn lực đáng kể để hoạt động trên quy mô lớn, tham gia vào một thị trường do các công ty nhỏ hơn thống trị. Kết quả là, sau này có thể cần phải đóng cửa hàng khi họ bị cạnh tranh không còn tồn tại.

+ Tự do hóa thương mại xóa bỏ hoặc giảm bớt các rào cản đối với thương mại giữa các quốc gia, chẳng hạn như thuế quan và hạn ngạch.

Có ít rào cản hơn đối với thương mại làm giảm giá vốn hàng bán ở các nước nhập khẩu.

Tự do hóa thương mại có thể mang lại lợi ích cho các nền kinh tế mạnh hơn nhưng lại đặt các nền kinh tế yếu hơn vào thế bất lợi hơn.

+ Một tập đoàn đa quốc gia (MNC) có cơ sở vật chất và các tài sản khác ở ít nhất một quốc gia khác với quốc gia của nó. Một công ty đa quốc gia thường có văn phòng và / hoặc nhà máy ở các quốc gia khác nhau và một trụ sở chính tập trung, nơi họ điều phối quản lý toàn cầu. Một số công ty này, còn được gọi là các tổ chức công ty quốc tế, không quốc tịch hoặc xuyên quốc gia, có thể có ngân sách vượt quá ngân sách của một số quốc gia nhỏ.

Các tập đoàn đa quốc gia tham gia kinh doanh tại hai hoặc nhiều quốc gia. MNC có thể có tác động kinh tế tích cực đối với quốc gia nơi hoạt động kinh doanh đang diễn ra. Nhiều người tin rằng sản xuất bên ngoài Hoa Kỳ có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế với ít cơ hội việc làm hơn. Kinh doanh xuyên quốc gia được coi là đa dạng hóa đầu tư.