Nền kinh tế thị trường (KTTT) là thành quả từ sự phát triển của văn minh nhân loại. Là động lực vì mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội và vì sự phát triển của con người. Vậy nền kinh tế thị trường là gì?

Đặc trưng của nền kinh tế thị trường

So với những tổ chức kinh tế xã hội khác, kinh tế thị trường có đặc trưng riêng như:

Phân loại các nền kinh tế thị trường

Có 4 loại kinh tế thị trường phổ biến hiện nay có thể kể tới như:

Vai trò của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam

Nền kinh tế thị trường tại Việt Nam đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống người dân. Dưới đây là một số minh chứng cụ thể cho vai trò của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam:

1. Phân bổ nguồn lực hiệu quả: Việt Nam mở cửa nền kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài thông qua các khu công nghiệp, chính sách ưu đãi. Ví dụ, việc Samsung đầu tư lớn vào sản xuất điện thoại tại Bắc Ninh và Thái Nguyên không chỉ giúp tận dụng nguồn lao động giá rẻ mà còn góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ.

2. Thúc đẩy cạnh tranh: Cạnh tranh trong các ngành dịch vụ và bán lẻ tại Việt Nam ngày càng gay gắt. Ví dụ các chuỗi siêu thị như Winmart, Coopmart liên tục cải thiện chất lượng dịch vụ và tung ra nhiều chương trình khuyến maaix để thu hút nhiều khách hàng. Điều này mang lại lợi ích cho người tiêu dùng khi họ có nhiều lựa chọn  hơn và được mua sắm với giá tốt.

3. Khuyến khích sáng tạo và cải tiến: Các doanh nghiệp công nghệ trong nước như VNG( Zalo) và FPT đã không ngừng đổi mới, nghiên cứu các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số nhằm cạnh tranh với các đối thủ quốc tế. Nhờ sự sáng tạo này, Việt Nam đang dần trở thành một trung tâm công nghệ mới trong khu vực Đông Nam Á.

4. Tạo động lực phát triển kinh tế: Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành thương mại điện tử như Shopee, Tiki và Lazada cho thấy nền kinh tế thị trường đã  tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới phát triển. Nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cao và sự cạnh tranh giữa các nền tảng này không chỉ mang lại nhiều lựa chọn cho tiêu dùng mà còn thúc đẩy giao thương, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế.

Ví dụ về nền kinh tế thị trường hiện nay

Sau đây sẽ là 3 ví dụ điện hình về nền kinh tế thị trường.

Trên đây là toàn bộ thông tin có liên quan tới nền kinh tế thị trường mà DNSE muốn chia sẻ tới bạn đọc. Hy vọng qua những chia sẻ về kinh tế thị trường ở bài viết mang tới cho bạn đọc thật nhiều thông tin bổ ích.

Khi bàn về kinh tế thị trường, có rất nhiều quan niệm khác nhau ở những cấp độ và cách tiếp cận; song chúng ta có thể hiểu, kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường.           Thuật ngữ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào năm 2001; đây là sự đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng ta, được đúc kết lại trên cơ sở đánh giá và rút ra các bài học lớn qua các kỳ Đại hội Đảng.           Ngày nay, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được khẳng định ngày càng sâu sắc ở những khía cạnh sau: Về mục tiêu xác định phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm công hữu và tư hữu; về cơ cấu, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà ước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế; thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; vận hành kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…           Ngày 02/8/2024, Bộ Thương mại Mỹ công bố về việc tiếp tục chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường ở nước ta; trước thông tin trên, cùng ngày Bộ Công thương đã có thông cáo bày tỏ rất lấy làm tiếc khi Bộ Thương mại Mỹ ban hành kết luận như trên. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu đã đưa ra nhiều luận điệu xuyên tạc trái chiều, bịa đặt, phủ nhận nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.           Các thế lực thù địch, phản động, nhất là phản động lưu vong đã tiến hành các cuộc tọa đàm, hội luận, phát tán các bài viết, video clips lợi dụng các sự kiện “nhỏ lẻ” để xuyên tạc nền kinh tế thị trường của nước ta nhằm mục đích phá hoại chính sách kinh tế Việt Nam; điển hình, ngày 08/8/2024 trang facebook “Chân Trời Mới Media” (thuộc tổ chức khủng bố “Việt Tân” - tổ chức hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam một cách quyết liệt và điên cuồng nhất) đã lợi dụng thị trường vàng để xuyên tạc nền kinh tế thị trường của nước ta, chúng tung luận điệu rằng: “Chỉ có mỗi cục vàng mua bán còn chả xong, ngồi đó mà gào đòi công nhận kinh tế thị trường”… Đây là luận điệu bịa đặt trắng trợn không thể chấp nhận được, thể hiện sự thiển cận, kém hiểu biết của chúng đối với một nền kinh tế thị trường thực thụ; mục đích của chúng là nhằm lừa mị quần chúng và phá hoại nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hòng làm ảnh hưởng đến quá trình hội nhập và phát triển đất nước. Việc đánh giá nền kinh tế của một quốc gia có phải là nền kinh tế thị trường hay không đều phải căn cứ vào những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế đó, chứ không phải là dựa vào một vấn đề nhỏ để đánh giá, quy chụp một cách chủ quan, phiến diện, thiếu tính khách quan, toàn diện. Với những đặc trưng của nền kinh tế nước ta, chúng ta có thể hoàn toàn khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, bởi lẽ nền kinh tế nước ta có đầy đủ các đặc trưng của nền kinh tế thị trường, nhất là những đặc trưng về mục tiêu của kinh tế, về quan hệ sở hữu, cơ cấu kinh tế, cơ chế vận hành và quan hệ phân phối…           Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta do toàn thể nhân dân làm chủ, trong đó có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu cao nhất là “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.           Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”; để có những thành công ấy, cùng với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước là sự phát huy hiệu quả trong hoạt động, vận hành của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.           Những thành tựu trên là minh chứng khách quan nhất, rõ ràng nhất, thuyết phục nhất và tự nó phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu./.

Tóm tắt: Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể. Từ quan niệm về bẫy thu nhập trung bình, bài viết chỉ ra các nguy cơ sập bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam và đưa ra một số hàm ý chính sách để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Từ khóa: Bẫy thu nhập trung bình; chuyển dịch cơ cấu kinh tế; năng suất lao động.

OVERCOMING THE MIDDLE-INCOME TRAP: A LOOK FROM THE VIETNAM ECONOMY SITUATION TODAY

Abstract: Recently, Vietnam has achieved important achievements in the transition from a low-income country to a middle-income country. However, the internal difficulties and external challenges of the economy make the risk of Vietnam falling into the middle-income trap possible. Based on the concept of the middle-income trap, the article points out the risks of falling into the middle-income trap in Vietnam and offers some policy implications for Vietnam to overcome the middle-income trap. Keywords: Middle income trap; economic restructuring; labor productivity.   1. Đặt vấn đề Khái niệm bẫy thu nhập trung bình trong những năm gần đây đã trở nên quen thuộc với các nhà phân tích và các chuyên gia kinh tế. Đây được xem là “tấm trần thủy tinh” vô hình ngăn cản nhiều quốc gia trên thế giới vươn tới mức thu nhập cao. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa chính xác về bẫy thu nhập trung bình. Hầu hết các khái niệm đề cập đến bẫy thu nhập trung bình đều dưới dạng mô tả những điểm đặc trưng của các nước được cho là đang rơi vào bẫy. Theo thuật ngữ kinh tế, bẫy thu nhập trung bình là khái niệm chỉ tình trạng một quốc gia thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập kỷ vẫn không trở thành quốc gia phát triển. Bẫy thu nhập trung bình xảy ra khi một nước bị mắc kẹt tại mức thu nhập trung bình đã đạt được nhờ khai thác tài nguyên và những lợi thế nhất định ban đầu như lao động giá rẻ, mà không được vượt qua được ngưỡng đó để đưa thu nhập lên mức cao hơn1. Theo cách xếp loại của Ngân hàng Thế giới (tính từ ngày 01/7/2012), một nước được coi là thu nhập thấp nếu tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người/năm đạt thấp hơn hoặc bằng 1.025 USD, nước có thu nhập trung bình thấp nếu GNI bình quân dao động từ 1.026 USD - 4.035 USD, nước có thu nhập trung bình cao nếu GNI bình quân rơi vào khoảng 4.036 USD - 12.475 USD và thu nhập cao nếu GNI bình quân ở mức trên 12.476 USD. Như vậy, theo cách hiểu này, nước có thu nhập trung bình là các quốc gia có GNI bình quân đầu người vào khoảng từ 1.026 USD đến 12.475 USD. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2023, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 101,9 triệu đồng/người, tương đương khoảng 4.284 USD, tốc độ tăng trưởng đạt 5,05%. Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng khá cao so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Kinh tế vĩ mô cơ bản giữ ổn định, kiểm soát được lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn, kinh tế trong nước tiếp tục xu hướng phục hồi. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại những nút thắt, đó là chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, các cân đối vĩ mô chưa vững chắc, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chưa đáp ứng được yêu cầu… Vì vậy, Việt Nam vẫn có thể vướng bẫy thu nhập trung bình. 2. Nhận diện các nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình Một là, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam chưa được như kỳ vọng. Cụ thể, từ năm 2020 đến nay, do chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 và những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thế giới, nên thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng chậm. Năm 2019, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 3.425 USD; sau đó, tăng lên 3.526 USD vào năm 2020; năm 2021 là 3.694 USD; năm 2022 là 4.120 USD; đến năm 2023, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Có thể nói, sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm qua đang đặt ra một số thách thức về khả năng thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực. Gần 40 năm qua, nền kinh tế Việt Nam trải qua ba đợt khủng hoảng vào các năm 1997 - 1999; 2008 - 2011 và 2020 - 2021. Sau mỗi kỳ khủng hoảng, kinh tế nước ta có xu hướng tăng trưởng chậm lại. Cụ thể như, tăng trưởng kinh tế bình quân cả nước thời kỳ 1991 - 2000 khoảng 7,6%; thời kỳ 2000 -  2010 khoảng 6,6% và thời kỳ 2011 - 2020 là khoảng 6%. Chính tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại và kéo dài trong nhiều năm là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang chững lại. Hai là, đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) chiếm tỉ lệ thấp. Mặc dù tăng liên tục qua các năm, tốc độ tăng TFP của Việt Nam còn khiêm tốn và chưa có đột phá. Giai đoạn 2011 - 2020, TFP tăng bình quân 2,51%/năm, trong đó giai đoạn 2011 - 2015 tăng 2,15%/năm; giai đoạn 2016 - 2019 tăng 3,37%/năm; năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên TFP chỉ tăng 0,96%. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020, TFP của Việt Nam tăng 2,88%/năm2. Tuy nhiên, sự gia tăng của năng suất các yếu tố tổng hợp không phải do sự phát triển vượt trội hơn của chính yếu tố này mà là do có sự suy giảm về quy mô ở mức cần thiết để duy trì tốc độ tăng trưởng theo dự kiến. Sự đóng góp còn khiêm tốn của yếu tố TFP đã cho thấy, tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua vẫn được thực hiện theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, sự tăng trưởng cũng nghiêng về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Nếu tình trạng này còn kéo dài sẽ làm cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không bền vững. Mặt khác, hiệu quả và năng suất đầu tư công của Việt Nam còn thấp. Chúng ta biết rằng, đầu tư công ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua: (i) Hiệu quả, tức là một lượng đầu tư công nhất định mang lại bao nhiêu về cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế; (ii) Năng suất, tức cơ sở hạ tầng vật chất được tạo ra tác động lan tỏa đến nền kinh tế như thế nào. Ở các nước đang phát triển có thu nhập thấp, tỉ lệ đầu tư công khoảng 7% GDP (năm 2018). Đầu tư công ở các nền kinh tế mới nổi thường dao động từ 5 - 7% GDP. Tại Việt Nam, năm 2023, đầu tư công chiếm khoảng 6,8% GDP, tương đương các nền kinh tế mới nổi3. Như vậy, hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam cao hơn một chút so với các nền kinh tế đang phát triển thu nhập thấp và thấp hơn các nền kinh tế mới nổi. Còn về năng suất đầu tư công, Việt Nam nằm giữa nhóm các nước có nền kinh tế mới nổi và các nước phát triển. Ba là, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Trong hai thập kỷ gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao năng suất lao động, nhờ đó năng suất lao động đã có những cải thiện đáng kể cả về giá trị và tốc độ. Mặc dù năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 tăng bình quân 5,4%/năm, nhưng vẫn ở mức thấp trong khối ASEAN. Tuy nhiên, so với các quốc gia trong cùng khu vực, sự chênh lệch năng suất lao động của Việt Nam càng trở nên rõ nét. Theo tính toán của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn 7 lần so với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan; 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia (gấp 2,4 lần); Myanmar (1,6 lần); Lào (1,2 lần). Để bắt kịp năng suất lao động và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tăng trưởng năng suất lao động liên tục với tốc độ 6,3 - 7,3%/năm. Gần đây, năng suất lao động của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Theo đó, so với năm liền kề trước, năng suất lao động năm 2018 tăng 5,55% và năm 2019 tăng 6,28%; năm 2020 tăng khoảng 1,5 lần so với năm 2015. Năm 2023, năng suất lao động của toàn nền kinh tế ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8.380 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 3,65% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2023 ước đạt 27%, cao hơn 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022)4. Mức tăng toàn xã hội bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,8%/năm, cao hơn so với mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011 - 2015. Tuy vậy, mức tăng này là chưa đủ để giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Mặt khác, vẫn còn khoảng cách về năng suất lao động giữa các ngành kinh tế ở Việt Nam. Năng suất lao động của nhóm ngành công nghiệp cao hơn nhóm ngành dịch vụ và gấp khoảng 3 - 3,5 lần năng suất lao động ngành nông nghiệp. Bốn là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Dù Việt Nam đã có những bước chuyển tích cực về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cụ thể trong giai đoạn 2010 - 2022, tỉ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản có xu hướng giảm từ 15,38% xuống 11,88%; tỉ trọng dịch vụ tăng từ 40,63% lên 41,33%; tỉ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 33,02% lên mức 38,26%5. Động lực chính của quá trình chuyển đổi là từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chứ không phải các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước tuy có sự cải thiện trong đóng góp vào kim ngạch xuất, nhập khẩu, nhưng lại kém cạnh tranh trong việc tác động vào cán cân thương mại. Năm 2023, cơ cấu nền kinh tế khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỉ trọng 11,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,12%; khu vực dịch vụ chiếm 42,54%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,38% (cơ cấu tương ứng của năm 2022 là 11,96%; 38,17%; 41,32%; 8,55%)6. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ. Song song đó, hiệu quả đầu tư của Việt Nam thấp thể hiện qua chỉ số ICOR vẫn tiếp tục tăng và ở mức cao. Chỉ số ICOR giai đoạn 2010 - 2019 đạt 5,9, các năm 2020 - 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, chỉ số ICOR (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) tăng vọt lên mức 12,47 và 15,51. Tuy nhiên, trong năm 2022, khi dịch bệnh đã được kiểm soát thì chỉ số này quay về mức 5,92, tương đương với giai đoạn trước đại dịch. Khi so sánh với các quốc gia khác đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng như Việt Nam thì hệ số ICOR của Việt Nam ở mức tương đối cao. Năm là, năng lực cạnh tranh của quốc gia vẫn ở mức thấp. Trong những năm qua, Việt Nam không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh cải cách hành chính… Tuy nhiên, thực tế vận hành của nền kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ một số hạn chế như việc can thiệp vào cơ chế giá thị trường; khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn còn lớn; hệ thống văn bản pháp luật chồng chéo, tồn tại nhiều bất cập, một bộ phận cán bộ còn đùn đẩy, sợ trách nhiệm trong giải quyết công việc, tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công vẫn còn xảy ra… Trong khi đó, Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) và Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam đang bị giảm so với các nước cùng mức thu nhập. 3. Một số hàm ý chính sách để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường trong quản lý, điều hành nền kinh tế vĩ mô. Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế; hoàn thiện thể chế tài chính doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp nhằm phục vụ quá trình sắp xếp, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, thực hiện phân bổ các nguồn lực xã hội theo cơ chế thị trường và theo các định hướng về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước. Đẩy nhanh quá trình hoàn thiện và phát triển đồng bộ các loại thị trường theo hướng hiện đại, nhất là thị trường chứng khoán, lao động, khoa học và công nghệ. Mặt khác, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền; thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thứ hai, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung phát triển công nghiệp để tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, cần xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược công nghiệp tổng thể phù hợp với mô hình và bước đi về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu lại sản xuất theo hướng tăng hàm lượng khoa học và công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, lợi thế cạnh tranh. Chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ có nhu cầu lớn như dệt may, giày dép và linh kiện điện tử. Đồng thời, hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như ngân hàng, bảo hiểm, logistics và các dịch vụ khác. Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ, tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin… Thứ ba, đẩy mạnh tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện quyết liệt và hiệu quả cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước. Kiên quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lí. Tập trung đẩy mạnh thực hiện phương án sắp xếp, cổ phần hóa, góp phần tháo gỡ các vấn đề tài chính cho doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng nói riêng trong quá trình tái cơ cấu. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác xử lí những tồn tại về tài sản, tài chính, công nợ, xử lí lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; phân định quyền hạn và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp, đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp. Thứ tư, ưu tiên nguồn lực đầu tư công để đầu tư các công trình quan trọng, thiết yếu, đáp ứng yêu cầu phát triển và đảm bảo kết nối các trung tâm kinh tế lớn, các đầu mối giao thông quan trọng. Đa dạng hóa hình thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng… Đồng thời, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực theo hướng đổi mới cơ cấu và phương thức đầu tư cho giáo dục và đào tạo; đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, đổi mới cơ chế huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học và công nghệ… Tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học và công nghệ với sản xuất, phát huy sáng tạo, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thứ năm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lí vĩ mô. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước; nâng cao chất lượng công tác xây dựng chính sách, thực hiện phối hợp hiệu quả trong quản lí kinh tế vĩ mô; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội, công tác kế toán, thống kê, giám sát, quản lí rủi ro và bảo đảm an toàn về nợ công và nợ nước ngoài quốc gia. Đồng thời, cần chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ theo hướng bền vững, ổn định giá trị đồng tiền. Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường; tăng cường hạ tầng tài chính bao gồm mở rộng và đào sâu dữ liệu tín dụng của người vay; giải quyết các thách thức về năng lực tài chính và bảo vệ người tiêu dùng và bảo mật dữ liệu. Tập trung xử lí nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. 4. Kết luận Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP chưa được như kỳ vọng, năng suất lao động còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, năng lực cạnh tranh quốc gia còn hạn chế…; tuy nhiên, hai điểm quan trọng đã khẳng định Việt Nam chưa rơi vào bẫy thu nhập trung bình là: Việt Nam vừa đang bước vào ngưỡng nhóm các nước có thu nhập trung bình cao và Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi phương thức phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, thực hiện đồng bộ các biện pháp bảo đảm ổn định vĩ mô nền kinh tế. Để vượt qua bẫy thu nhập trung bình một cách có hiệu quả, Việt Nam cần khơi thông các nguồn lực phát triển cho nền kinh tế, quan tâm đến những động lực tăng trưởng dài hạn, đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy đầu tư vào các ngành công nghệ cao, ứng dụng chuyển đổi số để tạo giá trị gia tăng và động lực tăng trưởng.

1 Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2015), Thuật ngữ kinh tế, ngày 08/01/2015, tr. 6. 2 Hoàng Đức Thân và các cộng sự (2022), Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đến năm 2030,  https://tapchicongsan.org.vn, cập nhật ngày 09/5/2022. 3 Đỗ Thiên Anh Tuấn (2023), Giải ngân đầu tư công chậm vẫn là vướng mắc từ luật và thể chế, Báo Tuổi Trẻ cuối tuần, ngày 31/12/2023, tr. 9. 4 Tổng cục Thống kê (2023), “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2023”, https://www.gso.gov.vn, cập nhật ngày 29/12/2023. 5 Tô Trung Thành (2021), Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 47 6 Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tình hình kinh tế - xã hội năm 2023 tiếp tục xu hướng phục hồi, kinh tế vĩ mô ổn định, https://www.mpi.gov.vn, cập nhật ngày 31/01/2024.

Tài liệu tham khảo: 1. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2023), Giải ngân đầu tư công chậm vẫn là vướng mắc từ luật và thể chế, Báo Tuổi Trẻ cuối tuần, ngày 31/12/2023. 2. Nguyễn Minh Phong, Nguyễn Minh Tâm (2014), Việt Nam chủ động vượt qua bẫy thu nhập trung bình, Tạp chí Cộng sản (Chuyên san Hồ sơ sự kiện), ngày 25/11/2014. 3. Tô Trung Thành (2021), Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Hoàng Đức Thân và các cộng sự (2022), Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đến năm 2030, https://tapchicongsan.org.vn, cập nhật ngày 09/5/2022. 5. Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2015), Thuật ngữ kinh tế, ngày 08/01/2015. 6. Tổng cục Thống kê (2023), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2023, https://www.gso.gov.vn, cập nhật ngày 29/12/2023.

Phóng viên: Từ góc độ của một người làm công tác nghiên cứu kinh tế, ông nhận định như thế nào về việc Bộ Thương mại Mỹ tổ chức phiên điều trần về nâng cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam ngày 8/5 vừa qua?

TS Nguyễn Đức Kiên: Bộ Thương mại Hoa Kỳ tổ chức phiên điều trần về việc Việt Nam có đáp ứng được tiêu chí của một nền kinh tế thị trường hay không là tín hiện tích cực trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Điều này cho thấy những cải cách của Việt Nam trong thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đang đi đúng hướng.

Trong phiên điều trần, một trong những nội dung chúng ta quan tâm nhất là Hoa Kỳ thực hiện cam kết về việc hai bên tôn trọng sự khác biệt về thể chế chính trị của nhau. Những vấn đề đó đang được các bên thực hiện và xứng tầm với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ ở cấp đối tác chiến lược toàn diện. Điểm tích cực có thể nhận thấy qua phiên điều trần là những cải cách thể chế của Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ-quốc gia định ra luật chơi kinh tế thị trường phải để ý đến và có trao đổi bàn thảo. Như vậy đã là một sự thắng lợi. Vì trước đây, những gì ta làm đều được mặc định là sai, nhưng nay, họ đặt vấn đề nhìn nhận việc Việt Nam đang làm. Theo tôi, đó là một bước tiến trong nhận thức và trong quan hệ giữa hai nước.

Phóng viên: Ông nhìn nhận thế nào khi có những quan điểm trái chiều giữa các tổ chức nghiên cứu cũng như các hiệp hội ngành hàng của Hoa Kỳ trước việc Bộ Thương mại nước này cân nhắc công nhận quy chế thị trường cho Việt Nam?

TS Nguyễn Đức Kiên: Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, ngay bản thân các nước tư bản đi trước cũng có rất nhiều mô hình khác nhau. Nếu như nền kinh tế thị trường của Pháp là mô hình tăng trưởng theo kiểu cũ thì Hoa Kỳ lại chọn mô hình tăng trưởng theo chủ nghĩa kinh tế thị trường kiểu mới; Đức và Áo lại là mô hình kinh tế thị trường xã hội; còn các nước Bắc Âu phát triển kinh tế thị trường phúc lợi. Cũng là kinh tế thị trường nhưng các nước tùy thuộc vào văn hóa, dân tộc, địa lý, tài nguyên khoáng sản để phát triển kinh tế, mục tiêu là làm sao đạt được tốc độ phát triển kinh tế nhanh, nâng cao đời sống người dân. Mục tiêu của Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn tương thích với cách mà các nước khác đã lựa chọn và đi trước.

Trong quá trình đó, một số chuyên gia trong và ngoài nước nhận định Việt Nam có điểm chưa làm tốt, thể hiện ở hai việc: Những hạn chế trong khu vực doanh nghiệp nhà nước còn quá lớn và nhà nước vẫn còn can thiệp vào thị trường, cụ thể là thị trường xăng dầu, thị trường điện. Ý kiến này là nhận xét phiến diện, không đặt trong một bức tranh tổng thể với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Đơn cử trong thị trường xăng dầu, Việt Nam không hạn chế doanh nghiệp đầu mối tham gia vào thị trường nhưng quy định đây là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu về kho bãi, vốn và quan trọng nhất là phải xử lý được ngoại tệ để nhập khẩu.

Cho nên, nếu chỉ nhìn qua hiện tượng các cây xăng bán ở bên ngoài thì dễ nhìn nhận nhà nước vẫn độc quyền trong thị trường xăng dầu. Nhưng nếu nhìn vào số liệu cụ thể về thị trường, thị phần, khả năng bảo đảm cung ứng xăng dầu ngay cả ở khu vực miền núi thì sẽ nhận thấy chỉ có doanh nghiệp nhà nước là Petrolimex mới gánh trách nhiệm đảm đương nhiệm vụ cung ứng xăng dầu trong cả nước, ngay cả ở những địa bàn không có lợi nhuận. Như vậy có nghĩa là Nhà nước đang thực hiện chức năng bảo đảm an sinh xã hội và cũng là một phần chức năng của Nhà nước phúc lợi. Đó là cách giải thích đơn giản và dễ hiểu về mô hình kinh tế thị trường của Việt Nam.

Còn đối với sự can thiệp của Nhà nước vào doanh nghiệp, chúng ta thấy trong câu chuyện xử lý khủng hoảng ngân hàng ở Hoa Kỳ năm 2023, Chính phủ nước này phải cam kết tiền gửi của người dân ở ngân hàng không bị mất. Việt Nam cũng có giải pháp tương tự khi xử lý các ngân hàng yếu kém, nếu không thì điều gì sẽ xảy ra đối với doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế? Tôi cho rằng cần nhìn rộng ra để thấy trong xử lý tình huống của nền kinh tế phải rất uyển chuyển, nhìn theo mục tiêu dài hạn để từ đó thấy rằng quá trình vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam thông suốt.

Sự ổn định thể hiện ở những ảnh hưởng xấu do tác động của kinh tế thị trường đến xã hội, đến cuộc sống người dân ở mức có thể chấp nhận được và trong phạm vi có thể phòng tránh được, không xảy ra tình trạng thất nghiệp hàng loạt, đẩy người dân đến tình trạng vô gia cư. Đó là mặt thành công của Việt Nam khi vận hành theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Phóng viên: Trong bộ tiêu chí để xác định một nền kinh tế thị trường, theo ông, Việt Nam đã thực hiện tốt ở những tiêu chí nào?

TS Nguyễn Đức Kiên: Một trong những thành công của chúng ta là đã hoàn thiện, đồng bộ được các thể chế để nền kinh tế vận hành thông suốt. Tất nhiên cũng có những lúc thể chế còn gò bó ở điểm này, điểm kia nhưng cũng thấy rằng ngay cả Hoa Kỳ cũng thành lập Liên minh Công nghiệp bán dẫn Chip 4 và tuyên bố không bán công nghệ này cho các nước không thân thiện. Đó chính là nhà nước can thiệp vào kinh tế và quốc gia nào cũng có. Một nền kinh tế được xác định là kinh tế thị trường khi nó tự vận hành theo nền kinh tế thị trường và trong quá trình đó, Nhà nước chính là người cầm lái điều khiển đi theo hướng nào.

Chúng ta cần thuyết minh cho các bạn quốc tế thấy hệ thống pháp luật của Việt Nam đến thời điểm hiện nay, đặc biệt là sau khi Hiến pháp 2013 ra đời thì hầu hết các luật được ban hành đều tương thích với hệ thống luật quốc tế và tương thích với các điều ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết. Đến nay chưa có tổ chức nào trên thế giới trong hợp tác đa phương và song phương phản ánh Việt Nam chưa thực hiện cam kết.

Bên cạnh đó, Việt Nam là quốc gia về đích sớm trong thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Quan niệm của chúng ta về an sinh xã hội, về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường đã được thế giới ghi nhận thông qua việc xóa đói, giảm nghèo, không ai bị bỏ lại phía sau. Đó là hai điểm chúng ta thấy tự hào nhất, là thành công của chúng ta.

Phóng viên: Với dòng chảy thương mại đang tăng nhanh trong quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia hiện nay, việc Hoa Kỳ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường sẽ đem lại lợi ích thế nào cho cả hai bên, thưa ông?

TS Nguyễn Đức Kiên: Đứng về phương diện của nền kinh tế, lợi ích của việc được công nhận là nền kinh tế thị trường sẽ giúp Việt Nam mở rộng thương mại và đầu tư với Hoa Kỳ, gián tiếp tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Về phía các công ty Hoa Kỳ sẽ có thêm cơ hội tiếp cận thị trường và xuất khẩu sang Việt Nam, góp phần thúc đẩy chuỗi cung ứng phù hợp với lợi ích của Hoa Kỳ, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm sản xuất lớn về hàng điện tử tiêu dùng, may mặc và đặc biệt là cơ hội phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.

Quan trọng nhất, việc Hoa Kỳ sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam sẽ góp phần cụ thể hóa cam kết của lãnh đạo cấp cao hai quốc gia, tăng cường mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ, qua đó thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người dân hai nước.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông.