Khmer Times ngày 17/7 đưa tin, Bộ Quốc phòng Campuchia đã lên tiếng phủ nhận tin đồn có vũ khí, khí tài quân sự Việt Nam tập kết gần biên giới với Campuchia. Ông Mao Phalla, người phát ngôn lục quân Campuchia nói với Khmer Times: "Cho đến hiện tại tôi không nhận được bất cứ thông tin nào về điều này, đó là những tin đồn sai sự thật".

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

VOV.VN - Một loạt những động thái cứng rắn, “ăn miếng, trả miếng” gần đây giữa Triều Tiên và Hàn Quốc khiến tình hình trên Bán đảo Triều Tiên nóng hơn bao giờ hết. Quan hệ liên Triều đang rớt xuống mức thấp nhất trong nhiều năm qua và chưa có dấu hiệu dừng lại, nguy cơ bùng phát xung đột toàn diện ngày càng trở nên hiện hữu.

Mối quan hệ giữa Triều Tiên và Hàn Quốc đặc biệt xấu đi nhanh chóng sau khi Triều Tiên sửa đổi hiến pháp, lần đầu tiên gọi Hàn Quốc là “quốc gia thù địch”. Cùng với đó là việc nước này cho nổ tung các tuyến đường bộ và đường sắt kết nối với Hàn Quốc, vốn từng được coi là biểu tượng chính của sự hòa giải liên Triều.

Chưa hết cuộc chạy đua vũ trang, bao gồm cả tên lửa và hạt nhân đang khiến an ninh trên Bán đảo Triều Tiên trở nên rất khó đoán định. Trong thời gian qua, Triều Tiên liên tục thực hiện các vụ thử vũ khí tên lửa, còn Hàn Quốc tăng cường tiềm lực quân sự, củng cố liên minh với Mỹ thông qua thực hiện các biện pháp răn đe mở rộng.

Nguy cơ xung đột tiếp tục bị đẩy lên đỉnh điểm khi Triều Tiên cảnh báo về một cuộc tấn công bằng pháo binh quy mô lớn nhằm trả đũa việc “thiết bị bay không người lái của Hàn Quốc” đã xâm nhập vào Bình Nhưỡng.

Ông Yang Moo-jin, hiệu trưởng Đại học Nghiên cứu Triều Tiên ở Seoul cho biết: “Theo quan điểm của Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un, Triều Tiên đã đưa ra cảnh báo và nhiều lần ám chỉ nhiều hành động tiếp theo liên quan đến vụ việc thiết bị bay không người lái gần đây ở Bình Nhưỡng. Và có lẽ, ông ấy không thể trì hoãn hành động này vô thời hạn”.

Về phía Hàn Quốc, Thị trưởng Seoul Oh Se-hoon đã lên án "những mối đe dọa không thể chấp nhận" đối với khu vực thuộc sự quản lý của ông, ám chỉ bình luận gần đây của Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un. Ông Oh Se-hoon cho rằng, sẽ là "bất cân xứng” nếu Triều Tiên thực hiện "hành động khiêu khích", vì nước này sở hữu vũ khí hạt nhân, trong khi Hàn Quốc thì không. Đó là lý do tại sao Hàn Quốc phải khẩn trương tăng cường năng lực răn đe hạt nhân.

Thị trưởng Seoul lên tiếng ủng hộ Hàn Quốc sở hữu kho vũ khí hạt nhân song Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol lưu ý rằng, nước này không tìm cách tạo ra vũ khí hạt nhân của riêng mình, đồng thời nhắc lại lời cam kết tăng gấp đôi nỗ lực hoàn thiện chiến lược răn đe hạt nhân với Mỹ - quốc gia cung cấp cho Seoul “chiếc ô hạt nhân” kể từ những năm 1950.

Chứng kiến những diễn biến căng thẳng gần đây trên Bán đảo Triều Tiên, Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc mới đây thông báo về việc thành lập nhóm làm việc đa quốc gia gồm 11 nước chịu trách nhiệm giám sát các lệnh trừng phạt Triều Tiên. Tuy nhiên, KCNA hôm qua đưa tin, Ngoại trưởng Triều Tiên Choe Son Hui ngay lập tức chỉ trích mạnh mẽ việc thành lập nhóm giám sát này là “hoàn toàn trái pháp luật và không chính đáng”. Nhà ngoại giao hàng đầu của Triều Tiên còn lớn tiếng cảnh báo, các thế lực tham gia vào chiến dịch bôi nhọ Triều Tiên sẽ phải trả giá đắt.

Trên thực tế, căng thẳng trên Bán đảo Triều Tiên đã diễn ra trong thời gian dài. Nhiều chuyên gia tin rằng, bất chấp việc Triều Tiên theo đuổi chiến lược “bên miệng hố chiến tranh” song không nhiều khả năng nước này sẽ tiến hành các cuộc tấn công quy mô lớn vào Hàn Quốc, vì điều này sẽ dẫn đến sự trả đũa mạnh mẽ từ lực lượng liên minh Mỹ - Hàn Quốc.

Nhìn từ tình hình hiện tại, giới quan sát dự đoán trong tương lai gần, hai bên sẽ không thể tránh khỏi việc sẽ tiếp tục có các động thái gây căng thẳng nhằm đáp trả lẫn nhau, song hành động “ăn miếng, trả miếng” có lẽ càng cho thấy rõ hơn rằng Hàn Quốc và Triều Tiên dường như đang bị mắc kẹt trong một trò đấu trí, khi mà cả hai bên đều không muốn nhượng bộ trước.

Theo truyền thống, người Trung Quốc luôn đánh giá cao vai trò của giáo dục với sự phát triển. Truyền thống này được đề cao hơn khi Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách một con vào thập niên 1970. Cha mẹ thường đặt kỳ vọng lớn vào đứa con duy nhất của mình và sẵn sàng hi sinh bất cứ thứ gì có thể để đem lại cơ hội học tập tốt nhất cho con cái. Tiêu dùng cho giáo dục chiếm phần lớn trong chi tiêu của hộ gia đình. Ví dụ, các bậc phụ huynh ở hầu hết các thành phố sử dụng 1/3 thu nhập gia đình cho việc học hành của con cái và ở một vài thành phố thì chi tiêu này có thể lên tới 1/2 thu nhập. Bên cạnh đó, các hoạt động ngoại khóa bên ngoài trường học như học piano, toán, nhảy, tiếng Anh cũng chiếm thêm một khoản tiêu dùng gia đình cho giáo dục.

Học sinh Trung Quốc tại một trường học ở Thượng Hải. Nguồn: CNN

Nỗi "ám ảnh" quốc gia về vấn đề giáo dục được phản ánh trong chính sách của chính phủ Trung Quốc. Ngay khi bắt đầu quá trình cải cách kinh tế, Đặng Tiểu Bình coi giáo dục như nền tảng của “4 hiện đại hóa” (nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng và khoa học công nghệ). Năm 1983, Đặng Tiểu Bình đề ra “3 định hướng” cho hệ thống giáo dục Trung Quốc, khẳng định “giáo dục nhất định phải được định hướng để hiện đại hóa”. Trong năm đó, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hội đồng Nhà nước công bố Đề cương Cải cách Giáo dục và Phát triển ở Trung Quốc, nhấn mạnh “một quốc gia vững mạnh dựa trên nền giáo dục và một hệ thống giáo dục vững mạnh dựa trên giáo viên”.

Năm 1997, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 15 quyết định chiến lược phát triển quốc gia nên dựa vào khoa học và giáo dục. Năm 2004, Hội đồng Nhà nước xuất bản Kế hoạch hành động cho Đẩy mạnh Giáo dục từ năm 2003 đến 2007, đặt giáo dục như một ưu tiên chiến lược cho phát triển Trung Quốc hiện đại. Theo Cục thống kê Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc tăng dần mức độ đầu tư cho giáo dục từ năm 2006 (từ 5.161 tỷ nhân dân tệ, tức 2,82% GDP từ năm 2005 lên 20.772 tỷ nhân dân tệ, tức 4% GDP năm 2012). Năm 2010, Bộ Giáo dục ban hành Đề cương Kế hoạch quốc gia cho trung và dài hạn cải cách Giáo dục và Phát triển (2010-2020) với mục đích đưa Trung Quốc thành quốc gia đi đầu về công nghệ và tri thức.

Hệ thống giáo dục ở Trung Quốc thực hiện mô hình 6–3–3–3/4 (6 năm tiểu học, 3 năm trung học cơ sở, 3 năm trung học phổ thông/học nghề, 2 hoặc 3 năm cao đẳng hoặc 4 năm đại học). Theo Luật Giáo dục bắt buộc của Trung Quốc thì học sinh phải bắt buộc học hết bậc trung học cơ sở. Trẻ em tham gia giáo dục bắt buộc được tới trường mà không cần phải khai báo hộ khẩu. Khi kết thúc học tiểu học, học sinh thường học tiếp trung học cơ. Học sinh muốn vào trung học phổ thông phải trải qua kỳ thi đầu vào để cạnh tranh cho các trường trường chất lượng tốt, những trường này là ngưỡng cửa quan trọng để vào đại học.

Công việc giảng dạy của giáo viên ở Trung Quốc dựa trên sự cạnh tranh nhằm thúc đẩy các hiệu trưởng và giáo viên làm việc chăm chỉ để đạt hiệu quả tốt hơn. Những hiệu trưởng và giáo viên giỏi thường dễ được thăng tiến và nhận tiền thù lao cao hơn. Với giáo viên không có trình độ tốt, cơ hội cho giảng dạy bị giới hạn. Thêm vào đó, việc trả lương dựa vào năng lực làm việc khiến giáo viên kém không chỉ mất mặt mà còn nhận mức lương thấp. Các bài kiểm tra cho học sinh diễn ra khá thường xuyên và có ý nghĩa quan trọng, là chỉ số đánh giá giáo viên và học sinh. Do vậy, giáo viên và học sinh phải làm việc hết sức chăm chỉ để cải thiện chất lượng.

Việc coi trọng các bài kiểm tra giúp học sinh Trung Quốc xếp vị trí cao nhất toàn cầu trong các kỳ thi. Ví dụ, theo Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế tổ chức bởi OECD tổ chức 3 năm một lần, học sinh Thượng Hải đạt kết quả tốt nhất các môn toán, khoa học và đọc năm 2009, và kết quả tương tự cho năm 2012.

Tuy nhiên, việc quá đề cao các bài kiểm tra đòi hỏi học sinh phải học thuộc, ghi nhớ thông tin và làm theo hướng dẫn, dẫn tới hậu quả là học sinh có ít ý tưởng, tính sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề. Sự yếu kém này đã gây ra những lo ngại cho chính phủ Trung Quốc với mục tiêu xây dựng một xã hội ổn định và thịnh vượng dựa trên giáo dục và khoa học. Kết quả là nảy sinh nhiều hơn những cải cách mang tính gốc rễ đã được thực hiện dựa trên Đề cương Kế hoạch quốc gia cho trung và dài hạn cải cách Giáo dục và Phát triển.

Sự phát triển của hệ thống giáo dục đã cho phép đào tạo nhiều hơn công nhân có chuyên môn và tay nghề để đáp ứng những thay đổi của nền kinh tế. Việc cung cấp lực lượng lao động có đào tạo đã giúp thúc đẩy tăng trưởng. Giáo dục ở Trung Quốc không chỉ là một ngành kinh doanh lớn cho các nhà đầu tư công và tư nhân, đó còn là nhân tố then chốt cho động lực phát triển nền kinh tế nước này.

Khi Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev phát động chính sách “cải tổ”, hai “công cụ hỗ trợ” rất quan trọng được các cố vấn của ông ta tham mưu, đề xuất sử dụng là thúc đẩy “đa nguyên ý kiến” và “công khai hóa” trong xã hội Xô viết. Lúc đầu cũng chỉ là “đa nguyên ý kiến”, chưa phải là đa đảng, và “công khai hóa” trong lĩnh vực báo chí – xuất bản, chứ chưa chạm đến công khai, minh bạch trong quản lý xã hội, quản lý kinh tế…

Ảnh trái: Lãnh đạo các nước cộng hòa thuộc Liên bang Xô viết ký hiệp định Belovezha về việc giải thể Liên Xô

và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) ngày 8-12-1991. Ảnh: Getty Images.

Ảnh phải: “Bộ ba” Yeltsin-Shushkevich-Kravchuk (từ phải sang trái) tại cuộc họp dẫn đến

hiệp ước “khai tử” Liên Xô. Ảnh: Getty Images.

Hai “công cụ hỗ trợ” này đã giúp Mikhail Gorbachev và ê-kíp của ông ta “bật đèn xanh” rất thoáng cho những phát biểu công kích Đảng và chế độ Xô viết, xuyên tạc lịch sử đất nước, bôi nhọ nhiều nhà lãnh đạo, người có công trong việc tạo lập, xây dựng và bảo vệ Nhà nước Liên bang Xô viết.

Trong điều kiện cải tổ, truyền hình, phát thanh, nhà xuất bản, báo chí Liên Xô dường như được “tự do” hoạt động, hàng loạt chương trình, ấn phẩm đủ thể loại được cho là “dũng cảm” mổ xẻ những trang “đen tối” của Đảng cộng sản, Nhà nước và quân đội Xô viết.

Cùng với đó, đường phố, quảng trường, công viên, nhất là tại những đô thị lớn như thủ đô Moscow, thành phố Saint Petersburg, trở thành nơi tập hợp, thành diễn đàn của các phe nhóm chống Đảng Cộng sản Liên Xô. “Đa nguyên ý kiến” và “công khai hóa” lan rộng, thì các đảng chính trị mới đối lập với Đảng cộng sản Liên Xô liên tiếp ra đời, tất cả đều đòi thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên Xô đã được thể chế hóa trong Hiến pháp.

Một số cơ quan báo chí Liên Xô khi đó vẫn kiên định lập trường kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa xã hội và Nhà nước Liên bang Xô viết thì bị coi là “bảo thủ”, phải hứng chịu những cuộc công kích dữ dội, thậm chí lực lượng chống Đảng cộng sản Liên Xô có những ngày tổ chức mua hầu hết số lượng báo chí xuất bản, dồn lại châm lửa đốt rụi tại các địa điểm công cộng.

Nhiều tờ báo quốc tế đưa tin về sự sụp đổ của Liên Xô. Ảnh: Tổng hợp

Nhà báo Nguyễn Đăng Phát, Phóng viên thường trú Thông tấn xã Việt Nam tại Liên Xô/Nga giai đoạn 1989-1993, người chứng kiến những năm tồn tại cuối cùng của Liên bang Xô viết, Tổng Thư ký Hội Hữu nghị Việt-Nga, nhớ lại: “Dựa trên “tâm trạng xã hội” do chính sách đa nguyên ý kiến và công khai hóa khuấy động lên như vậy, hoạt động nghị trường trong khuôn khổ Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô và Xô viết Tối cao Liên Xô cũng sục sôi như không khí ngoài đường phố. “Nóng” nhất là những cuộc tranh cãi, những lời hô hào đòi bỏ Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô (về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên Xô).

Rốt cuộc, Điều 6 bị xóa bỏ, Đảng cộng sản Liên Xô trở thành một đảng “bình thường” như những chính đảng khác đã ra đời ồ ạt như nấm mọc sau cơn mưa… Từ đây, đường đến chỗ Liên bang Xô viết sụp đổ không còn xa nữa”.

Ngay sau khi Mikhail Gorbachev trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô vào năm 1985, Alexander Yakovlev, người được mệnh danh là “kiến trúc sư cải tổ”, “cha đẻ công khai hóa” của Liên Xô và “điệp viên có ảnh hưởng” của Mỹ, đã nhanh chóng được đề bạt làm Trưởng ban Tuyền truyền Trung ương.

Dưới sự tác động và chỉ đạo của ông ta, nhiều tờ báo hàng đầu và có ảnh hưởng lớn của Liên Xô lúc đó đã được thay ban lãnh đạo bằng những người ủng hộ chính sách “cải tổ” do Gorbachev đưa ra.

Chính điều này đã tạo điều kiện cho truyền thông “trở mặt” và bắt đầu thao túng dư luận, nhằm thay đổi nhận thức và tư tưởng của mỗi người dân. Một số tờ báo và tạp chí “cấp tiến” quay sang đả kích và bôi nhọ chế độ xã hội chủ nghĩa, khiến nhận thức và tư tưởng của dân chúng bị lung lay.

Ảnh 1: Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev; Ảnh 2: Alexander Yakovlev, người được mệnh danh là “kiến trúc sư cải tổ”, “cha đẻ công khai hóa” của Liên Xô; Ảnh 3: Yakovlev (ảnh trái) và Gorbachev đi dạo trên cánh đồng ở Canada năm 1983.

Dưới sự điều khiển báo chí của Yakovlev, quá trình phá hoại Liên Xô vào cuối thập niên 1980 diễn ra không giống như một cuộc xung đột giai cấp, mà là sự thay đổi âm thầm trong nhận thức và tư tưởng của mỗi người. Được sử ủng hộ của Gorbachev, ông ta đã mặc sức phá hoại nền tảng văn hóa con người Xô viết bằng cách “giết dần giết mòn” nền tảng đó.

Sau khi chương trình “công khai hóa” bắt đầu có hiệu lực từ năm 1986, một số lượng lớn các tác phẩm văn hóa, vốn trước đây từng bị cấm xuất bản, đã được tung ra trước công chúng.

Ban đầu, người dân Liên Xô không biết tỏ thái độ thế nào với chính sách “công khai hóa”, cũng như đưa ra đánh giá như thế nào về những gì đang diễn ra. Mọi người chưa thể hình dung được những hậu quả cuối cùng sẽ ra sao khi bãi bỏ kiểm duyệt như vậy.

Người ta cho phép phát hành những tác phẩm công khai chỉ trích chính quyền Xô viết và mô hình chính quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó có những tác phẩm như: “Những đứa trẻ Arbat” của Rybakov, “Biến mất” của Trifonov, “Cuộc sống và số phận” của Grossman…

Một người cầm lá cờ Xô Viết đứng trước tượng đài Lenin ở Minsk- Belarus. Nguồn: Reuters

Cùng với các tác phẩm nghệ thuật, báo chí số ra theo kỳ cũng trở nên phổ biến, trong đó có “Luận chứng và sự kiện” (được đưa vào sách kỷ lục Guinness về số lượng phát hành lớn nhất thế giới với 30 triệu bản mỗi ngày), “Sự thật”, “Tin tức Moscow”, “Thế giới mới”, “Lao động”... Các chương trình truyền hình “Nhìn nhận”, “Trước và sau nửa đêm”, “Bánh xe thứ năm” trở nên rất nổi tiếng. Bảng xếp hạng các chương trình truyền hình cho thấy chúng chiếm những vị trí đầu tiên.

Qua những chương trình truyền hình này, khắp mọi nơi người ta bắt đầu bàn tán về sự không hoàn hảo của hệ thống xã hội chủ nghĩa, những ưu điểm của phương Tây, thậm chí còn xét lại lịch sử khi đề cấp đến vai trò lãnh đạo của Stalin và tác hại của Cách mạng Tháng Mười đối với nước Nga. Tại thời điểm đó, thể hiện rõ nhất sự thay đổi nhanh chóng trong tư duy và nhận thức của người dân.

“Công khai hóa” đã dần dần phá hủy toàn bộ nguyên tắc và nền tảng vốn đã hình thành từ trước đó rất lâu. Báo chí bắt đầu đăng tải những bài viết theo chính sách “ngu dân” về đề tài lịch sử và kinh tế kiểu như: “Cả đời các bạn chỉ được nghe những điều giả dối, nhưng bây giờ chúng tôi sẽ nói ra cho các bạn toàn bộ sự thật”.

Bộ máy tuyên truyền của Liên Xô từng được coi là một trong những bộ máy hoạt động mạnh và có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền cũng cần được đổi mới phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển xã hội, trong đó có sự phát triển văn hóa quần chúng ở phương Tây.

Nếu Liên Xô không cản trở dòng nhạc mới và phong cách thời trang, mà ngược lại, nên củng cố và phát triển xu hướng này, thì nước này đã cho thấy rằng, không chỉ trong vũ trụ, mà còn trong những lĩnh vực này họ là người đi tiên phong trên thế giới. Liên Xô lẽ ra phải đi đầu trong mọi lĩnh vực, mặc dù chế độ Xô viết được coi là ở thời kỳ tốt nhất vào thời điểm đó.

Trong những thập niên từ 1960 đến 1980, nước này đã sản xuất ra những bộ phim hay nhất được đưa vào “Quỹ văn hóa thế giới vàng”. Thậm chí ngày nay, nhiều người vẫn say sưa và thích thú xem đi xem lại những bộ phim này. Nhưng cuối cùng, thời trang và âm nhạc phương Tây đã lấn át mọi thứ. Đối với thiếu niên Liên Xô, việc nghe nhạc trong nước hay mặc trang phục Liên Xô đi dạo sẽ làm mất đi thể diện của họ.

Thời trang và âm nhạc phương Tây trở nên phổ biến trong giới trẻ Liên Xô vào thập niên 1980-1990.

Phần lớn người dân Liên Xô lúc đó, do tác động của truyền thông báo chí với chính sách “công khai hóa”, nên muốn có cuộc sống “như ở phương Tây”. Và họ đã đạt được điều đó, nhưng rồi cuối cùng nhận ra rằng, những chiếc quần jean không phải là giá trị cơ bản trong cuộc sống. Các học thuyết, mà trước hết là chủ nghĩa Mác-Lênin, đã bị bỏ lại phía sau rất xa, thậm chí còn bị lãng quên.

“Học thuyết Mác-Lênin nhất định phải được phát triển có tính đến những thay đổi diễn ra trên thế giới, nhưng hiện không ai làm điều này và cũng không có những nhà tư tưởng như vậy để làm. Nhưng Lênin vẫn không ở lại phía sau chúng ta, mà là đang ở phía trước.

Rồi thời đại của Người chắc chắn sẽ quay trở lại sau bao năm bị lãng quên, cố tình im lặng về nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nước Nga này”, ông Grigory Trofimchuk, chuyên gia trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, quốc phòng và an ninh, Chủ tịch Hội đồng chuyên gia Quỹ nghiên cứu Á-Âu, nhận định.

Sinh thời, V.I. Lênin từng nêu một luận điểm nổi tiếng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta thì luôn đề cao giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.

Người căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”; “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng...”. Theo Người: “Tự vệ là bảo vệ lấy mình, lấy gia đình mình, rồi đến thành phố mình, nước mình”.

Trong giai đoạn hiện nay cũng như vừa qua, đã có nhiều biểu hiện trào lưu xét lại lịch sử, phủ nhận quá khứ hết sức nguy hiểm. Không phải ngẫu nhiên mà Đảng ta xác định một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” là: “Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”.

Chúng ta phải làm tốt hơn nữa việc giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, để lịch sử như tấm gương soi, giúp thế hệ sau soi vào cả quá khứ và hiện tại, tương lai với sự trân trọng, biết ơn, rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá.