Ô dược là cây thân gỗ, cao khoảng 1 - 15m. Lá mọc so le, dạng hình bầu dục, mặt lá nhẵn bóng, mặt dưới lá có lông. Hoa của cây ô dược có màu hồng nhạt, họp thành tán nhỏ. Quả mọng dạng hình trứng, khi quả chín có màu đỏ, một hạt.

SKĐS- Ô dược là một vị thuốc nam được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền trị các bệnh về tiêu hóa...

Ô dược có tên khoa học là Lindera myrrha (Lour) Merr.; thuộc họ long não (Lauraceae). Với các thành phần alcaloid và tinh dầu từ rễ cây, ô dược có công dụng chính là hành khí, chỉ thống (giảm đau) và khứ hàn.

Một số bài thuốc chữa bệnh có đại hoàng

ThS.BS. Nguyễn Quang Dương giới thiệu một số bài thuốc chữa bệnh có đại hoàng như sau:

+ Vị tràng thực nhiệt dẫn đến đại tràng bí kết, táo bón nặng, thậm chí có khi dẫn đến sốt cao, nói mê sảng, phát cuồng: Đại hoàng (nướng), hậu phác mỗi vị 9g; mang tiêu 15g; chỉ thực 8g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần, uống trước bữa ăn khi thuốc còn ấm. Uống liền vài ngày tới khi hết táo bón.

+ Nếu táo bón nhẹ hoặc táo bón ở những người sức khỏe yếu, người cao tuổi, phụ nữ sau sinh: Đại hoàng (sao vàng), hậu phác, mỗi vị 9g; chỉ thực 6g; hoặc đại hoàng 6g; vừng đen 15g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần trước bữa ăn, khi thuốc còn ấm. Uống liền vài ngày tới khi hết táo bón.

+ Người bị táo bón mạn tính, táo bón do nghề nghiệp: Đại hoàng (sao vàng) 45g; đào nhân 20g; mộc hương, chỉ thực, sài hồ, cam thảo, mỗi vị 15g. Các vị nghiền bột mịn, thêm mật ong làm hoàn, chia 2 lần uống sáng và tối, mỗi lần 6g. Hoặc uống ngày 1 lần 9g với nước hãm chỉ xác.

Cần lưu ý rằng, để tăng nhu động ruột và làm cho đại tiện thông suốt, bao giờ đại hoàng cũng được dùng kèm với chỉ xác (đại hoàng phi chỉ xác bất thông), có nghĩa là đại hoàng làm phân nát ra, song để tống ra ngoài cần phải có chỉ xác, là những vị thuốc có tác dụng làm tăng nhu động ruột.

Lưu ý: Khi dùng đại hoàng trị táo bón không nên dùng thời gian dài, sẽ gây táo bón trở lại, mặt khác đi ngoài nhiều bệnh nhân mất tân dịch sẽ gây mệt mỏi.

- Trị nôn ra máu, chảy máu cam, trĩ ra máu, màng kết hợp sung huyết, sung huyết não, lợi bị sưng phù: Đại hoàng (sao cháy); hoàng cầm, hoàng liên, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần trước bữa ăn. Uống liền nhiều ngày tới khi các triệu chứng giảm.

- Trị mụn nhọt ở miệng, lưỡi, lỗ mũi, nhọt vú...: Đại hoàng (chích rượu) tán bột mịn, uống mỗi lần 9g, ngoài ra có thể dùng bột đại hoàng hòa vào nước làm thành dạng nhão, bôi vào nơi bị bệnh.

- Trị biến chứng đái tháo đường

Trị đái tháo đường biến chứng thận: Hoàng kỳ sống 30g; xích thược 15g; xuyên khung, đương quy, kê nội kim, thương truật mỗi vị 15g; đào nhân, hồng hoa, đại hoàng mỗi vị 6g; tang ký sinh 10g, sắc uống. Ngày 1 thang, chia 2-3 lần. Uống khi thuốc còn ấm. Bài thuốc phù hợp với những trường hợp khí hư, huyết ứ, người mệt mỏi, sắc mặt vàng khô, có protein trong nước tiểu.

+ Vàng da do viêm gan cấp: Ngoài điều trị tích cực bằng y học hiện đại có thể phối hợp với y học cổ truyền hiệu quả điều trị rất tốt. Phép điều trị là thanh nhiệt giải độc, lợi thấp thoái hoàng. Dùng bài "Nhân trần cao thang" gồm nhân trần 84g, đại hoàng 24g, chi tử 14g, sắc uống. Ngày 1 thang, chia 2-3 lần. Uống khi thuốc còn ấm.

Tác dụng: Lợi mật, giảm mỡ máu, ức chế sự thoái hóa của tế bào gan đạt hiệu quả tốt, vàng da giảm nhanh, tế bào gan hồi phục nhanh chóng.

+ Xơ gan: Đại hoàng 12g, bạch hoa xà thiệt thảo 12g, bán chi liên 12g, bạch truật 12g, hoàng kỳ 12g, xích thược 10g, đào nhân 10g, uất kim 8g, sài hồ 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Chia 2-3 lần. Uống khi thuốc còn ấm.

Tác dụng thanh nhiệt giải độc, ích khí hoạt huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết, tiêu trướng trừ mãn, cải thiện chức năng gan, hạn chế xơ hóa tế bào gan; đạt hiệu quả cao.

- Chữa hắc lào: Đại hoàng 10g, dấm 5ml, rượu 50ml. Ngâm trong 10 ngày, lấy ra bôi lên các vết hắc lào đã rửa sạch.

- Uống quá liều gây ra buồn nôn, nôn, đau đầu, bụng chướng, đại tiện lỏng… Mặc dù đại hoàng có tác dụng thông tiện nhuận tràng nhưng dùng liên tục trong một thời gian dài lại gây ra hiện tượng táo bón thứ phát.

- Thận trọng khi dùng cho những người tỳ vị hư nhược, phụ nữ có thai hoặc cho con bú.

Xem thêm video đang được quan tâm:

Bắp cải - món ăn bài thuốc | SKĐS

Công dụng và liều dùng của nhân sâm

Theo đông y, nhân sâm có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn (ấm) tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân dịch, ích trí, làm sáng mắt, trừ tà khí, làm chậm lão hoá, tăng tuổi thọ.

Dùng trong các trường hợp: Khí huyết suy hư, cơ thể suy nhược, phế hư sinh ho suyễn, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, người mới ốm dậy, người suy nhược thần kinh thường hoảng hốt, bất an.

Dùng riêng hoặc phối hợp với những vị thuốc khác. Ngày dùng 2 - 6g, có khi nhiều hơn (12 - 20g). Sắc uống, chưng cách thuỷ hoặc hấp, ngâm rượu, tán bột, ninh nấu với các thực phẩm khác...

Nhân sâm làm tăng cường hoạt động của hệ tuần hoàn và hô hấp, tăng hưng phấn thần kinh, tăng sức lực, tăng khả năng lao động… Cho nên, chỉ sử dụng vào buổi sáng hoặc chiều, không sử dụng vào buổi tối, để cơ thể được nghỉ ngơi tốt hơn.

Không nên dùng nhân sâm cùng với củ cải, cà phê, chè và những chất kích thích thần kinh khác làm giảm tác dụng của nhân sâm.

Lưu ý khi dùng nhân sâm, thể chất quá suy không thu nạp được lại gây phản tác dụng.

Những người đang bị bệnh thực chứng (tức là bệnh cấp tính) như: Cảm sốt phong hàn, cảm mạo phong nhiệt, đau bụng tiêu chảy do trúng thực, do nhiễm thấp nhiệt, sốt xuất huyết, viêm gan cấp, viêm tuỵ cấp, viêm loét dạ dày – tá tràng, bị giãn phế quản, ho ra máu, người bị cao huyết áp, bị bệnh hệ thống miễn dịch (ban đỏ, mụn nhọt, việm khớp dạng thấp, da cứng…), thanh niên hay bị xuất tinh sớm, di tinh, phụ nữ đang mang thai, trẻ em dưới 14 tuổi...không nên dùng nhân sâm.

Là thuốc đại bổ nguyên khí, phù hợp với những người khí suy. Tuy nhiên, những người nguyên khí không bị suy tổn dùng nhân sâm dễ dẫn đến chứng "khí ứ hóa hỏa".

Sách cổ có ghi: Những người có thể trạng âm hư hoả vượng, âm hư nội nhiệt với các triệu chứng: Người gầy, da khô, nóng, lòng bàn tay, bàn chân nóng, miệng khô khát nước, trong lòng phiền muộn, bứt rứt, mất ngủ, gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, sốt hâm hấp vào buổi chiều, đại tiện táo, tiểu tiện vàng, chất lưỡi đỏ nhạt… không nên dùng.

Cần bổ mới bổ, không phải trường hợp suy nào cũng bồi bổ được. Cơ thể hư nhược đương nhiên cần phải bổ nhưng chứng hư thì có âm hư, dương hư, huyết hư, khí hư do đó cần phải xem xét cân nhắc trước khi dùng thuốc.

Không nên bổ thái quá và cho rằng càng bổ càng tốt. Đề phòng hiện tượng "quá suy không thu nạp được bổ" lại gây phản tác dụng.

Tốt nhất nên phối hợp nhân sâm với một số vị thuốc khác để tăng cường hiệu quả đồng thời giảm tác dụng phụ của thuốc

Nhân sâm đại bổ nguyên khí, kết hợp với tính đại tân, đại nhiệt của phụ tử làm tăng tác dụng ôn bổ nguyên dương. Hai vị thuốc này cùng dùng gọi là "Sâm phụ thang" có tác dụng đại ôn đại bổ, ích khí hồi hương cố thoát. Lâm sàng  dùng cấp cứu trong trường hợp nguyên khí bạo thoát, âm dương khí huyết bạo thoát (Biểu hiện: Huyết áp tụt, mồ hôi ra như tắm, sắc mặt trắng nhợt, chân tay lạnh...).

Hoàng kỳ phối hợp với nhân sâm để tư bổ thận hư, huyết hư…

Nhân sâm và hoàng kỳ đều là những thuốc bổ khí quan trọng.

-Nhân sâm là thuốc đại bổ nguyên khí, sinh tân dịch, an thần, thiên về tư bổ cường kiện.

-Hoàng kỳ thăng dương cử hãm, cố biểu chỉ hãn, thiên về ôn bổ, cố hộ.

Hai vị dùng cùng làm tăng chức năng ôn bổ khí. Người bệnh cơ thể gầy yếu suy nhược có triệu chứng ho, suyễn thiếu khí, thở ngắn, tự hãn (đổ mồ hôi) người mệt mỏi, ăn kém, khó tiêu, kèm theo các triệu chứng tỳ hư hạ hãm như sa trực tràng, sa dạ dày, sa tử cung, trĩ, di niệu, di tinh, bằng lậu hay các triệu chứng của thận hư, liệt dương, mất ngủ, ngủ kém do tâm huyết hư... đều có thể dùng nhân sâm phối hợp hoàng kỳ để tư bổ.

Bạch truật vị đắng ngọt, tác dụng táo thấp kiện tỳ, vừa có tác dụng hoãn tỳ sinh tân dịch, vừa có tác dụng kiện tỳ tiêu cốc, là thuốc quan trọng nhất trong kiện tỳ, bổ phế khí. Tỳ là gốc của hậu thiên, là nguồn gốc sinh hóa của khí huyết. Tỳ vị không yên, chức năng thu nạp và vận chuyển bị rối loạn thì nguồn khí huyết bị thiếu hụt sinh ra chứng tỳ vị hư nhược: Ăn kém, ăn không tiêu, bụng trướng tức, sắc mặt vàng, tứ chi vô lực...

Dùng nhân sâm phối hợp bạch truật sẽ hỗ trợ, bổ sung tác dụng cho nhau làm tăng hiệu quả điều trị.

Nhân sâm đại bổ nguyên khí, bổ khí, ích tỳ, sinh tân chỉ khát. Tam thất chỉ huyết khứ ứ, tiêu thũng chỉ thống. Hai vị dùng cùng có tác dụng ích khí giảm đau, chỉ huyết hóa ứ.

Lâm sàng ứng dụng trong điều trị các chứng do khí hư huyết ứ gây đau có hiệu quả nhất định.

Nguồn tin : https://suckhoedoisong.vn/nhan-sam-vi-thuoc-bo-nhung-khong-phai-ai-cung-dung-duoc-169220823101805659.htm

Đại hoàng còn có tên gọi khác là xuyên đại hoàng, tướng quân. Tên khoa học Rheum sp. Thuộc họ Rau răm Polygonaceae.

Đại hoàng (Rhizoma Rhei) là thân rễ phơi hay sấy khô của nhiều loại đại hoàng như chưởng diệp đại hoàng Rheum palmatum L., đường cổ đặc đại hoàng Rheum tanguticum Maxim. Ex Regel (Rheum palmatum L. var. tanguticum Maxim.) hoặc dược dụng đại hoàng Rheum officinale Baill. hoặc một vài loài Rheum khác. Tất cả đều thuộc họ Rau răm (Polygonaceae).

Vị thuốc có màu vàng, củ to cho nên gọi là đại hoàng, vì vị thuốc có khả năng tống cái cũ, sinh cái mới rất nhanh chóng như dẹp loạn cho nên còn gọi là tướng quân.

Vị thuốc đại hoàng chữa ứ huyết.

Trong đại hoàng có hai loại hoạt chất có tác dụng trái ngược nhau:

- Loại hoạt chất có tính chất thu liễm - là hợp chất có tanin (rheotannoglucozit).

- Loại hoạt chất có tác dụng tẩy: Rheoanthraglucozit.

Theo ThS.BS. Nguyễn Quang Dương – Khoa Nội tổng hợp Bệnh viện Tuệ Tĩnh đại hoàng có các tác dụng sau:

- Kích thích sự co bóp của ruột: Tác dụng chậm, chừng 5-10 giờ sau khi uống mới thấy tác dụng, có khi lâu hơn.

Khi uống thuốc phân mềm, vàng hay nâu sẫm, màu này một phần do màu của đại hoàng, một phần do chất mật tiết ra nhiều hơn. Thường không thấy đau bụng, tuy nhiên đôi khi thấy buồn nôn, chóng mặt hay nổi mẩn.

- Tác dụng sung huyết đối với các mạch máu trĩ: Do đó, không nên dùng đối với người bị trĩ và những người hay bị táo (vì thường sau khi gây tác dụng nhuận tràng, đại hoàng hay gây táo bón mạnh hơn trước).

- Trong đại hoàng có chứa nhiều canxi oxalat cho nên không dùng lâu cho những người bị kết thạch thận oxalic hay sổ nước nang (catarrhe vesical) vì nó có thể gây ra bệnh đái ra oxalat. Do vậy các bệnh nhân có sỏi thận hạn chế sử dụng.

- Các chất màu thấm qua máu, nước tiểu và mồ hôi, sữa… tất cả các chất bài tiết đều có màu vàng và nếu nước tiểu có phản ứng kiềm, nước tiểu sẽ có màu đỏ.

- Do có reotanoglucozit, đại hoàng có tính chất bổ, thêm vào tính chất gây co bóp nhẹ với liều thấp của các antraglucozit.

- Tác dụng diệt khuẩn (staphyllococcus, lỵ, thương hàn, tả).

Đại hoàng phối hợp với hoàng cầm và các vị thuốc khác trị nôn ra máu...

Đại hoàng được dùng cả trong Đông y và Tây y. Theo tài liệu cổ đại hoàng vị đắng tính hàn, vào năm kinh tỳ, vị, can, tâm bào và đại trường. Có tác dụng hạ vị tràng tích trệ, tả huyết phận thực nhiệt hạ ứ huyết, phá trưng hà (kết báng ở bụng) hàn thủy. Dùng chữa hạ lỵ, ứ huyết, kinh bế thủy thũng, thấp nhiệt gây vàng da, ung thũng đinh độc.

Dùng với liều nhẹ làm thuốc giúp tiêu hóa tốt, chữa kém ăn, ăn không tiêu, da vàng, hay đau bụng. Ngày uống 1 - 2 gam dưới dạng sắc, bột hay thuốc viên.

- Dùng với liều cao làm thuốc tẩy nhẹ, dùng cho người đầy bụng, đi lỵ, hoàng đản (da và mắt vàng). Ngày uống 5 - 10g. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác như chỉ thực, hậu phác, hoàng liên, mang tiêu, sẽ có công hiệu mạnh hơn nhiều lần.

Xích thược phối hợp với đại hoàng và các vị thuốc khác trị đái tháo đường biến chứng thận.